by Bruce Lee in
TQDN

3KTTA – Không ai mới sinh ra đã là gian hùng. Tào Tháo cũng vậy. Từ “năng thần” biến thành “gian hùng”, nói như Hứa Thiệu là do từ “trị thế” chuyển sang “loạn thế”.

Năng thần thất vọng

Tào Tháo đã từng là thần tử năng nổ tích cực, đã từng bất chấp nguy cơ bị giáng chức để dâng sớ tâu bày điều hay, bảo vệ người ngay, ngăn cản kẻ xấu. Chỉ tiếc là mọi nỗ lực can gián đều thất bại. Hoạn quan tiếp tục lộng hành, làn sóng cải cách bị ngăn chặn, Hán đế thậm chí còn tuyên bố “Kẻ nào tấu trình về việc sửa sang chính trị tại các châu huyện mà không hiệu nghiệm, khiến dân chúng phao ngôn nhảm nhí đều bị bãi miễn chức vụ” [1].

Phản ứng của triều đình đích thực làm Tào Tháo thất vọng. Tam Quốc Chí mô tả là Tháo “biết không thể khuông phò chính sự được, bèn chẳng dâng lời can gián nữa” [1]. Không lâu sau, dù được thăng làm Thái thú Đông quận, Tháo từ chối mà “xưng bệnh về quê” [1].

Triều đình Đông Hán cũng đến hồi vô phương cứu chữa. Sau khi Linh đế chết, Đại tướng quân Hà Tiến bị hoạn quan giết, đến lượt Đổng Trác vào kinh, phế Thiếu đế lập Hiến đế, sau lại giết luôn Thái hậu và Thiếu đế, thì tôn nghiêm của Hán triều đã mất sạch. Tào Tháo về đến Trần Lưu, bèn “phát tán gia tài, tập hợp nghĩa binh, chuẩn bị tru diệt Trác” [1]. Đó là chuyện của năm 189. Đến năm 190 thì Tào Tháo đã có mặt trong liên quân Quan Đông cùng nhau phạt Đổng.

Tru diệt nghịch tặc, phục hưng xã tắc tưởng đâu là chuyện ai cũng muốn làm, nhưng hóa ra không phải. Liên quân tụ họp xong, ngoài Tào Tháo và Tôn Kiên, không có ai động binh. Tào Tháo binh ít tướng thiếu, thua về tay Từ Vinh (tướng của Đổng Trác), đến khi quay về đại bản doanh liên quân ở Toan Tảo, chỉ thấy “chư quân binh lực hơn chục vạn, ngày ngày tụ họp uống rượu, chẳng mưu tính tiến thủ gì” [1]. Liên quân lúc này lộ rõ bản chất tự tư, chẳng những khước từ mưu kế của Tào Tháo, lại quay sang tàn hại nhau hòng chiếm địa bàn cho riêng mình. Thứ sử Duyện châu Lưu Đại giết chết Thái thú Đông quận Kiều Mạo. Thái thú Bột Hải Viên Thiệu bức hiếp Ký châu mục Hàn Phức, cướp đoạt Ký châu.

Triều đình Đông Hán làm Tào Tháo thất vọng. Nhưng những con người hiện tại của Hán triều mới thật sự khiến Tào Tháo tâm tàn ý lạnh. Lúc liên quân dùng dằng không tiến, Tháo đã từng thẳng thắn phê bình “Các ông ôm mối ngờ vực không chịu tiến, làm mất lòng trông ngóng của thiên hạ, ta trộm vì các ông mà xấu hổ!” [1]. Nhưng khi liên quân quay sang xâu xé nhau vì tư lợi, thì Tào Tháo không chỉ xấu hổ cho họ, mà còn nhận ra rằng, không thể trông đợi được bất cứ ai trong số các “thần tử Hán triều” đó.

Đêm trước “gian hùng”

Từ lúc đó, Tào Tháo quyết định sẽ hành động một mình. Năng thần phải có quyền lực để trấn áp gian thần. Không có quyền lực, mọi ước muốn cải cách chỉ là trên giấy. Tào Tháo, từ đó cũng trưng binh, chiếm đất, thậm chí còn “ép thiên tử lệnh chư hầu”.

Cùng với những chiến thắng về mặt quân sự, Tào Tháo cũng từng bước đi xa hơn trên con đường chính trị. Năm 213, Tháo ép Hiến Đế phong mình làm Ngụy Công, ban cho Cửu tích. Năm 216, đánh Trương Lỗ xong, Tháo được “từ tước công thành Ngụy vương”, hưởng thụ các đặc quyền “triều bái không phải xưng danh”, “vào triều không phải rảo bước”, được “đeo kiếm lên điện”, thậm chí được “đội mũ miện có mười hai tua, đi xe sáu ngựa kéo” (những nghi thức của bậc đế vương), lại lấy Tào Phi làm Thế tử nước Ngụy. Có thể nói, nền móng cho một cuộc thoán đoạt đã được Tào Tháo chuẩn bị hết sức đầy đủ.

Năm 220, chỉ vài tháng sau khi Tào Tháo mất, Tào Phi ép Hiến đế nhường ngôi, nhà Ngụy chính thức thay thế nhà Hán. Ấn tích “gian hùng” của Tào Tháo cũng vì cuộc thoán đoạt này mà mãi mãi không thể nào phai.

Không ai mới sinh ra đã là gian hùng. Tào Tháo cũng vậy. Từ “năng thần” biến thành “gian hùng”, nói như Hứa Thiệu là do từ “trị thế” chuyển sang “loạn thế”. Nhưng trong tư duy của Tào Tháo, hẳn cũng phải có một quá trình chuyển tiếp lâu dài. Như chính lời Tào Tháo tự thuật rất thành thật trong bản “Thuật chí lệnh” của mình: “Cô ban đầu được cử làm Hiếu liêm, tuổi trẻ, tự biết mình không phải là kẻ sĩ nổi danh nơi hang động, thế nên chỉ muốn làm một viên Quận thú, nắn sửa chính giáo, kiến lập danh tiếng, khiến kẻ sĩ trên đời biết đến mình…

… Cô thân là Tể tướng, ngôi nhân thần đã cực quý, ước vọng đã quá rồi vậy. Cô nói lời này, xem như tự cao tự đại, là muốn cho người ta nói hết lời, nên không phải úy kỵ gì. Thiết nghĩ quốc gia nếu không có Cô, chẳng biết có bao người xưng đế, bao kẻ xưng vương?…”[1]

Gian hùng, có lẽ quả thật do loạn thế mà tạo ra…

Sử liệu từ Tam Quốc Chí đã cho ta nhìn thấy một năng thần Tào Tháo vốn đã bị Tam Quốc Diễn Nghĩa vùi che, một bộ mặt khác của kẻ “tuyệt gian” trong “tứ tuyệt” thời Tam Quốc. Vậy còn “tuyệt nhân” Lưu Bị, đối thủ lớn của Tào Tháo, lại sẽ có vóc dáng thế nào trong chính sử?

“Trị thế năng thần, loạn thế gian hùng” Tào Tháo

Người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa hẳn rất quen với tám chữ “trị thế năng thần, loạn thế gian hùng” (bề tôi giỏi đời trị, kẻ gian hùng thời loạn) mà Hứa Thiệu bình phẩm về Tào Tháo ngay từ hồi Một. Tám chữ này được mặc định như là mô tả chân xác nhất về vị bá chủ Bắc Ngụy hiếp bức thiên tử hiệu lệnh chư hầu.

Lời bình của Mao Tôn Cương thậm chí còn nói kỹ hơn: “Lúc ấy đâu có phải thời trị, vì thế câu nói của Hứa Thiệu chủ yếu nằm ở vế sau – Tháo là kẻ gian hùng! Nghe người ta bảo mình là gian hùng, mà Tháo mừng, thì cái mừng ấy thật là ác, thật là hiểm”.

Nhưng có thật là Tào Tháo “cả mừng” khi nghe lời bình phẩm ấy? Tam Quốc Chí kể lại một cố sự khá tương đồng. Chỉ khác đúng một chi tiết: Tháo không phải “cả mừng”, mà là “cả cười”. Đây là một khác biệt quan trọng.

Vì sao lại cười? Vì vui, vì đắc ý, vì…đơn giản là thấy tức cười. Suy nghĩ của chàng trai trẻ Tào Tháo (thời điểm đó Tháo chưa hai mươi) lúc ấy có thể là một loại xung động trong lòng được bộc phát lên thành tiếng cười, thứ xung động vui mừng hay đắc ý ấy dẫu sao vẫn mang màu sắc ngây thơ, như chính cái cách Tháo ép Hứa Thiệu bình phẩm về mình (người ta đã không đáp mà cứ “cố hỏi”, như con nít!), nhưng chắc chắn không phải là cái “ác”, cái “hiểm” như ấn tượng mà Tam Quốc Diễn Nghĩa đem lại.

Chỉ với một chữ bị thay đổi từ chính sử sang tiểu thuyết, nhân vật lịch sử Tào Tháo đã bước bước chân đầu tiên vào hình tượng văn học “gian hùng” như thế đó.

Tạo hình nhân vật Tào Tháo trong phim.

Đông Hán khi nào là “loạn thế”?

Mao Tôn Cương không cho rằng thời điểm Hứa Thiệu phẩm bình về Tào Tháo là “trị thế”. Vậy nhưng lúc đó đã đủ để gọi là “loạn thế” hay chưa?

Theo trình tự thuật sự của Tam Quốc Chí, khi ấy Tào Tháo chưa đầy hai mươi, tức là trước năm 175. Loạn Khăn Vàng phải 9 năm sau (năm 184) mới nổ ra, càng xa nữa mới đến những cuộc phản loạn của Trương Thuần, Vương Phân, Biện Chương, Hàn Toại hay cuộc xung đột ngoại thích – hoạn quan giữa Hà Tiến và Thập Thường Thị (năm 189). Tình trạng quân phiệt cát cứ lại còn xa vời hơn nữa. Vậy sao có thể gọi là “loạn”?

Năng thần Tào Tháo

Nếu có thể gọi tên, thì thời điểm Tào Tháo hai mươi tuổi có thể coi là không “loạn” cũng không “trị”, các mầm mống loạn lạc đang ở mức sơ khai, hoạn quan nắm quyền lớn nhưng chưa lộng hành ra mặt. Và Tào Mạnh Đức khi ấy, theo Tam Quốc Chí, thật bất ngờ lại mang dáng dấp của một năng thần.

Sau khi được đề cử Hiếu liêm, Tháo được phong làm Bắc Bộ úy ở Lạc Dương. Đây là chức vụ đứng đầu về trị an ở cửa Bắc kinh đô Lạc Dương. Tào Tháo khi đảm nhiệm chức vụ này đã “sửa sang trị sự”, trừng trị “cường hào”. Tam Quốc Chí mô tả là Tào Tháo “làm roi năm màu, dựng hai bên cổng tất cả mười cây. Ai phạm phải điều cấm, bất kể có là cường hào, đều bị nọc ra đánh đến chết” [1].

Để duy trì trị an và pháp luật, Tào Tháo không ngại đụng độ với các thế lực khác như hoạn quan, mà tiêu biểu là việc cương quyết chấp pháp, đánh chết chú của Tiểu hoàng môn Kiển Thạc (nhân vật được Hán Linh đế tin cậy hơn cả Thập Thường Thị, giao cho chỉ huy Tây Viên quân – quan chức là Thượng quân Giáo úy, cao hơn cả Viên Thiệu, Tào Tháo khi đó

Không chỉ chuyên cần chính vụ, Tào Tháo khi ấy còn là một thần tử năng nổ, đã không ít lần dâng thư can gián lên Hán đế. Khi Trần Phồn, Đậu Vũ mưu diệt hoạn quan thất bại, chính Tào Tháo đã dâng sớ để bảo vệ các quan lại chính trực, chỉ ra “gian tà đầy rẫy trong triều”[1] (ý nói thế lực hoạn quan), lời lẽ trong sớ “hết sức thống thiết” [1]. Chỉ có một năng thần, với lý tưởng phụng sự cao đẹp và sự dũng cảm không ngại khó khăn, không sợ nguy hiểm, mới có thể làm ra những chuyện như vậy.

Vì thế, khi nghe được lời bình phẩm từ Hứa Thiệu, giả như Tháo có “cả mừng” như La Quán Trung mô tả, thì cái “mừng” ấy hẳn là cái mừng vì được nhìn nhận tài năng và hoài bão của một năng thần, chứ chưa hẳn đã là cái mừng của kẻ gian hùng.

Related Posts

No Comments

Leave a Reply